Cần làm gì khi bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm trên mạng xã hội? Những việc cần phải thực hiện ngay

Bị xúc phạm danh dự, uy tín trên mạng xã hội, công dân cần phải làm gì để bảo vệ bản thân

Khách hàng: Kính thưa Luật sư, gần đây tôi bị một người không quen biết đặt điều, nói xấu trên mạng xã hội facebook. Người này cố tình truyền tải những thông tin hoàn toàn không có thật để xúc phạm nghiêm trọng danh dự, uy tín của tôi. Xin Luật sư tư vấn tôi cần phải làm gì để bảo vệ mình và người bôi nhọ danh dự, uy tín, nhân phẩm của tôi có thể phải chịu những chế tài nào?

Hãng luật Alegal giải đáp vấn đề của quý khách như sau:

1. Quyền được bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm của công dân trước pháp luật

Có thể nói hành vi bôi nhọ, nói xấu, xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của người khác trên mạng xã hội là hiện tượng không hiếm gặp trong xã hội hiện nay.

Việc bôi nhọ, nói xấu, xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của người khác trên mạng xã hội có tính chất nguy hiểm và gây thiệt hại lớn hơn so với các hành vi truyền thống bởi tính chất mở của các mạng xã hội, nơi mỗi thông tin sai lệch đều được truyền tải rộng rãi, phát tán nhanh, tiếp cận nhiều người, nhiều đối tượng hơn bao giờ hết.

Pháp luật nghiêm cấm hành vi xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của người khác. Quyền được bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm là quyền nhân thân cơ bản của mỗi công dân, là quyền bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ tuyệt đối.

Căn cứ Điều 34 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:

Điều 34. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín

1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.

Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.

4. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.

5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.

Căn cứ điểm d, điểm e khoản 1 Điều 5 Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 07 năm 2013 quy định như sau:

Điều 5. Các hành vi bị cấm

1. Lợi dụng việc cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng nhằm mục đích:

d) Đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân;

e) Giả mạo tổ chức, cá nhân và phát tán thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Như vậy, pháp luật bảo vệ tuyệt đối uy tín, danh dự, nhân phẩm của mỗi công dân. Những hành vi xâm phạm đều phải bị xử lý nghiêm theo đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm.

2. Người có hành vi bôi nhọ, nói xấu, xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của người khác bị xử lý như thế nào

Hành vi nói xấu, bôi nhọ uy tín, danh dự của người người khác trên mạng xã hội là hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật, người thực hiện hành vi có thể bị xử lý vi phạm hành chính, chịu trách nhiệm dân sự, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự tuỳ theo tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi.

a) Bị xử phạt vi phạm hành chính

Trường hợp một cá nhân có hành vi bôi nhọ, nói xấu, xúc phạm đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của người khác, hành vi này bị tố cáo ra cơ quan chức năng mà chưa đến mức bị truy tố trách nhiệm hình sự (tính nguy hiểm cho xã hội không cao) thì bị xử phạt vi phạm hành chính.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 và khoản 3 Điều 66 Nghị định 174/2013/NĐ -CP của Chính phủ, hành vi “Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không được sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật” hoặc “Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác” có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

Việc xử phạt vi phạm hành chính không loại trừ trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại của người có hành vi vi phạm cho người bị thiệt hại.

Việc bị xử phạt vi phạm hành chính sẽ loại trừ khả năng chịu trách nhiệm hình sự của người có hành vi vi phạm.

b) Bị truy tố trách nhiệm hình sự

Trường hợp một cá nhân có hành vi bôi nhọ, nói xấu, xúc phạm đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của người khác mà có tính chất nguy hiểm cao, đủ yếu tố cấu thành tội phạm có thể bị truy tố trách nhiệm hình sự.

Trong trường hợp này, người có hành vi vi phạm có thể bị truy tố tội danh Tội làm nhục người khác theo Điều 155 hoặc Tội vu khống theo Điều 156 Bộ luật Hình sự. Khi bị truy tố theo Tội làm nhục người khác, người phạm tội có thể bị mức án cao nhất đến 05 năm tù.

Việc bị truy tố trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại của người có hành vi vi phạm cho người bị thiệt hại.

Việc bị truy tố trách nhiệm hình sự sẽ loại trừ khả năng bị phạt hành chính của người có hành vi vi phạm.

c) Chịu trách nhiệm dân sự: Cải chính thông tin, công khai xin lỗi và bồi thường thiệt hại

Bên cạnh việc bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc có thể bị truy tố trách nhiệm hình sự, người có hành vi bôi nhọ, nói xấu nhằm xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của người khác còn phải cải chính thông tin sai lệch, công khai xin lỗi và bồi thường thiệt hại cho nạn nhân.

Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:

1) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;

2) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;

3) Thiệt hại khác do luật quy định.

Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm ngoài các khoản trên còn phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà nạn nhân gánh chịu.

Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (khoảng 15 triệu đồng).

Can Lam Gi Khi Bi Xuc Pham Danh Du Nhan Pham Tren Mang Xa Hoi

3. Những công việc cần phải thực hiện ngay khi bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm

Có thể khẳng định cơ chế pháp lý cho hành vi xâm phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của công dân là không thiếu. Tuy nhiên hiện nay việc xử phạt các cá nhân có hành vi này gặp không ít khó khăn, điều này xuất phát từ tính chất phức tạp của các mạng xã hội (máy chủ đặt ở nước ngoài, khó truy vết nguồn phát tán thông tin), bên cạnh đó người bị hại cũng không có các hành vi cần thiết tại thời điểm có hành vi xâm phạm dẫn đến chứng cứ bị xoá bỏ làm cho cơ quan nhà nước không có căn cứ xử phạt người vi phạm.

Khi bị người khác nói xấu, bôi nhọ, người bị hại cần thực hiện các biện pháp sau đây:

a) Yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm

Khi có hành vi bôi nhọ, nói xấu trên mạng xã hội, việc trực tiếp yêu cầu người có hành vi xâm phạm nhanh chóng gỡ bỏ tin bài, chấm dứt hành vi vi phạm là hết sức cần thiết, giúp hạn chế sự lan truyền thông tin bất lợi, sai sự thật của người bị hại. Việc các thông tin có hại tồn tại càng lâu, lan truyền rộng, tiếp cận nhiều người sẽ gây ra thiệt hại càng lớn, càng khó thu hồi thông tin.

Trong trường hợp không thể xác định cụ thể người phát tán thông tin, hoặc người phát tán thông tin không chấm dứt hành vi xâm phạm sau khi được yêu cầu, hoặc hành vi xâm phạm đã gây thiệt hại nghiêm trọng, người bị hại cần xem xét, tiếp tục thực hiện các biện pháp như bên dưới.

b) Thu thập chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm

Việc thu thập chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm cần phải thực hiện kịp thời và đầy đủ. Đã nhiều trường hợp người bị hại tố giác hành vi bôi nhọ, nói xấu, tuy nhiên tại thời điểm cơ quan chức năng xử lý tin báo, người có hành vi xâm phạm đã gỡ bỏ tin bài dẫn đến không có căn cứ để xử lý.

Quý khách hàng có thể thực hiện việc thu thập chứng cứ bằng các phương pháp sau đây:

  1. Chụp màn hình bài viết, bản tin có nội dung bôi nhọ, nói xấu mình, kết hợp với chụp thông tin của người đăng tải, thông tin càng đầy đủ càng tốt. Việc chụp lại thông tin bôi nhọ, nói xấu được xem làm một dạng chứng cứ (chứng cứ yếu) phục vụ cho quá trình xử lý vụ việc.
  2. Tìm một vài người tin cậy làm chứng cho vụ việc.
  3. Lập vi bằng xác nhận nội dung thông tin bôi nhọ, nói xấu và xác nhận nguồn đăng thông tin. Vi bằng được lập tại cơ quan Thừa phát lại, có giá trị chứng cứ cao nhất. 

Theo Điều 7 Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC về giá trị pháp lý của vi bằng thì: “Vi bằng do Thừa phát lại lập là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án và là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp theo quy định của pháp luật.Trong quá trình đánh giá, xem xét giá trị chứng cứ của vi bằng, nếu xét thấy cần thiết, Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân có thể triệu tập Thừa phát lại để làm rõ tính xác thực của vi bằng.”

Thu thập chứng cứ đầy đủ là một bước rất quan trọng để có cơ sở xử lý hành vi vi phạm.

c) Gửi đơn tố cáo, yêu cầu xử lý tới các cơ quan thẩm quyền

Sau khi thu thập đầy đủ chứng cứ tại mục b, người bị hại gửi đơn tố cáo đến cơ quan thanh tra về Thông tin truyền thông địa phương để xử phạt vi phạm hành chính người có hành vi phạm. 

Nếu hành vi của người vi phạm nghiêm trọng đến mức cần phải bị xử lý hình sự, người bị hại có thể gửi đơn tố cáo đến Cơ quan điều tra Công an địa phương để xử lý.

Trong trường hợp người có hành vi vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính, người bị hại có thể sử dụng Quyết định xử phạt vi phạm hành chính để khởi kiện tại Toà án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Trong trường hợp người có hành vi vi phạm bị xử lý hình sự, người bị hại có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại tại phiên toà hình sự.

Trường hợp Quý khách hàng thắc mắc về bất kỳ vấn đề nào hoặc có nhu cầu tư vấn, hỗ trợ pháp lý vui lòng liên hệ Luật sư Nhật theo sđt 0898 485 485.

———————–

Xem thêm:

 

# Bài liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *